Sắc ký cột là kỹ thuật phổ thông nhất trong các phòng thí nghiệm. Phương pháp này rất đơn giản và có thể phân lập các hợp chất khỏi hỗn hợp một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, giống như nhiều kỹ thuật hóa học thực hành khác, để có thể thiết lập và chạy một cột sắc ký nhanh và hiệu quả lại cần đến nhiều năm kinh nghiệm. Bài viết này có đề cập đến một số cách giúp bạn tối ưu hóa các thông số thí nghiệm để bạn có thể phân tách tốt nhất các hợp chất của mình: xử lý một số sự cố trong quá trình thực hiện sắc ký cột.
Khi chạy cột
Chúng ta đã có 2 bài trước về cách nhồi cột và cách lựa chọn cột và dung môi. Sau khi thiết lập được hệ cột rồi, đến giai đoạn chuyển mẫu và chạy cột. Việc đưa mẫu lên cột liên quan đến quá trình đưa mẫu trực tiếp lên cột để mẫu được hấp phụ lên silica
Lưu ý: Phải đảm bảo bạn có đủ thời gian để chạy cột trước khi bạn đưa mẫu lên đó. Một khi đã đưa mẫu lên cột thì không nên dừng cột quá 5 phút. Không được ngừng cột quá 2 lần. Khi cột đang chạy rồi, việc dừng cột trên 1 phút sẽ dẫn tới dải sẽ bị mở rộng và điều này nên tránh.
Nếu hợp chất của bạn có độ tan kém trong hệ dung môi cho phân tách tốt nhất, như vậy bạn nên chọn phương pháp đưa mẫu khô lên cột.
Dụng cụ:
Bình đáy tròn
Silica khô
Một dung môi có khả năng hòa tan mẫu hoàn toàn
Máy cô quay chân không
Cách làm:
Hứng các phân đoạn
Để bắt đầu hứng phân đoạn, đặt một bình hứng thích hợp phía dưới cột và mở van cột. Mỗi cột đều có một tốc độ dòng tối ưu. Chỉnh van để điều chỉnh tốc độ dung môi chảy ra. Nếu tốc độ quá chậm quá trình khuếch tán sẽ dẫn đến làm rộng dải thu mẫu (Hình 1, a). Nếu quá nhanh thì không đủ thời gian cân bằng và hợp chất sẽ bị chảy xuống rất nhanh, để lại vết dài phía sau (Hình 1, c). Với những cột có đường kính nhỏ, tốc độ tối ưu sẽ thấp hơn so với ở cột có đường kính thấp hơn. Do đó, cột có đường kính lớn hơn sẽ chạy nhanh hơn với tốc độ lớn hơn so với cột nhỏ.
Hình 1. Sự thay đổi tốc độ dòng có thể thay đổi chất lượng quá trình phân tách. Tốc độ tối ưu đạt được ở (b)
Không lúc nào được để mức dung môi ở dưới mức silica trong cột (hiện tượng “chạy khô”). Dung môi nên được bổ sung thường xuyên trước khi điều này xảy ra. Nạp dung môi khi mức dung môi trên lớp cát bảo vệ khoảng 2cm. Thêm dung môi sớm khi dung môi vẫn còn trong cột sẽ giảm thiểu được việc bề mặt silica bị xáo trộn và các liên kết ở phía trên đỉnh của cột bị phá vỡ.
Sẽ có một thể tích chết mà trong đó không chứa mẫu. Dung tích của nó phụ thuộc vào kích thước cột và hợp chất được tách ra. Có thể xem xét dải dung môi phân cực tương ứng được sử dụng để hòa tan mẫu. Đây là một công cụ hỗ trợ bổ ích khi bắt đầu hứng các phân đoạn. Nếu bạn không thể tìm thấy dải dung môi phân cực, đánh dấu mức dung môi bắt đầu lên cột bằng bút không trôi. Đánh dấu điểm thứ hai trên cột phía dưới điểm đầu tiên một khoảng bằng 2/3 chiều dài cột silica (Hình 2). Khi mức dung môi xuống dưới điểm thứ 2, đấy là lúc thích hợp bắt đầu hứng phân đoạn. Nếu vẫn còn nghi ngờ vị trí hợp chất trên cột, vậy hãy hứng phân đoạn sớm hơn lúc đó.
Lưu ý: Hứng lấy lượng dung môi thuộc vùng “thể tích chết” này vào một bình chứa sạch. Sau đó, nếu mẫu của bạn ra sớm hơn dự kiến, bạn có thể thu hồi lại được từ bình này. Cũng nên cô lượng dung môi này và kiểm tra nó trước khi xử lý (bỏ) nó.
Hình 2. Cách ước tính thể tích chết
Dung tích của phân đoạn
Với các cột lớn, không cần thiết phải thu quá nhiều phân đoạn nhỏ: vì sau cùng sẽ lại dồn với nhau. Tuy nhiên, nếu chỉ thu nhận một vài phân đoạn có thể sẽ chỉ thu được nhưng phân đoạn giống nhau, đặc biệt nhưng dải dung môi thu hồi khi ra khỏi cột khá sát nhau hoặc có thể tạo các vết dài, để thu được phân đoạn lý tưởng có thể tham khảo hướng dẫn sơ bộ ở Bảng 1
Bảng 1. Dung tích ước tính các phân đoạn thu nhận cho từng kích cỡ cột
Dự đoán phân đoạn thu hồi có chứa mẫu?
Chấm một vài giọt của từng phân đoạn lên bản mỏng TLC và phát triển nó như khi kiểm tra bắc sắc ký bản mong. Cắt bản mỏng lớn hơn bình thường (khoảng 5 x 7 cm), như vậy có thể kiểm tra được từ 5- 10 phân đoạn trên một bản.
Xem bài Cách chạy sắc ký bản mỏng
Sắc ký cột nhanh
Nếu chạy cột nhanh, có một thông số nữa cần được kiểm soát: áp suất. Áp suất phổ biến giữ ở mức 1 – 2 psi. Có thể cao hơn (2 – 4 psi) nếu sử dụng silica siêu mịn. Có thể sử dụng các dung môi có độ nhớt như butanol hoặc nước khi áp suất tách cao hơn 2 psi.
Giới hạn áp suất cho cột thủy tinh là 7 psi!!!
Đầu khí đi vào cột có thể được giữ bằng tay hoặc bằng một kẹp nhựa vì chúng sẽ bị bật ra khi áp suất quá cao. Cách khác để giữ đầu vào ổn định không nên dùng. Đầu khí đi vào cột có thể vỡ nếu áp suất thoát ra làm nó rơi ra hoặc bị chạm vào các vật cực. Để đảm bảo an toàn, khí có thể được đi vào bằng một kim bơm qua vách ngăn cao su an toàn (septum). Vách ngăn cao su này sẽ bật ra nếu áp suất quá cao nhưng không bị vỡ khi có va chạm.
Sau khi xem xét cách nhồi cột và lựa chọn cột, thiết bị, dung môi cần thiết. Nhưng ngay cả khi đã lựa chọn cột, dung môi, chạy cột cẩn thận, vẫn có thể xảy ra các sai sót. Vấn đề đầu tiên là cần phải bình tĩnh, mọi thứ đều không quá nghiêm trọng như khi chúng ta vừa thấy. Tiếp đó, nhớ tới các kinh nghiệm xử lý vấn đề tương tự đã xảy ra và tìm cách giải quyết. Sau đây là bảng một số vấn đề thường gặp và cách xử ly (Bảng. 2).
Bảng 2. Vấn đề thường gặp trong quá trình chạy sắc ký cột và giải pháp
Sắc ký bản mỏng 2 chiều rất hữu dụng để xác định xem hợp chất cần tách có bền trên silica hay không hoặc với các mẫu có quá nhiều các thành phần cấu tử.
Dụng cụ cần dùng:
Bản mỏng TLC
Dao cắt/ kéo/ dụng cụ cắt
Bút chì
Bình triển khai bằng thủy tinh (có thể là cốc có mỏ, đĩa petri có nắp đậy..)
Dung môi (hệ dung môi) cần kiểm tra
Dụng cụ chấm bản mỏng (ống mao quản hoặc micro pipet) (xem thêm bài: Cách chấm bản mỏng bằng ống mao quản)
Kẹp gắp bản mỏng
Đèn UV, buồng soi, bình phun thuốc thử KMnO4
Cách làm:
Hình 3. Qui trình chạy sắc ký bản mỏng 2 chiều (2D TLC) để kiểm tra độ bền của hợp chất trên silica
Nếu hợp chất không bền trên silica, nên chuyển sang dùng alumina hoặc dùng một kỹ thuật làm sạch khác như kết tinh hoặc chưng cất. Cũng có thể chưa thực hiện việc làm sạch vội, mà chuyển toàn bộ hỗn hợp mẫu (định tách) sang bước tiếp theo của thí nghiệm. Tùy thuộc vào phản ứng sau đó, hợp chất có thể chuyển thành dạng bền hơn với silica và dễ làm sạch hơn.
Chạy cột tốn khá nhiều thời gian và không phải lúc nào cũng cần. Nếu là mẫu rắn, phương pháp kết tinh lại sẽ nhanh và đơn giản hơn để loại tạp chất. Nếu mẫu có chứa ít tạp, dùng phương pháp silica plug sẽ nhanh hơn. Nếu lượng mẫu nhỏ (trên dưới 50mg), nên chạy cột nhỏ (micro-column). Những kỹ thuật thay thế này sẽ không cho kết quả tách và làm sạch tốt như sắc ký cột thường vì mẫu có thời gian tiếp xúc với silica ít hơn.
Tuy nhiên, dưới một số điều kiện đã nêu, các phương pháp này tiết kiệm thời gian và tiết kiệm nguyên liệu.
Silica Plug
Phương pháp silica plug là giải pháp thay thế thô sơ cho sắc ký cột thông thường. Nó chỉ phù hợp với các mẫu có giá trị Rf cao và chỉ có một vài tạp bị tách ra, ở gần với vạch xuất phát (hình 4).
Hình 4. Bản mỏng TLC ví dụ cho trường hợp mẫu thích hợp áp dụng phương pháp Silica Plug
Việc chuẩn bị phương pháp này hoàn toàn tương tự với sắc ký cột có lớp lọc frit ngoại trừ việc nó chạy trên một phễu lọc frit có đường nhánh ở bên kết nối với nguồn chân không hoặc bơm vòng nước (Hình 5).
Một lớp cát mỏng được cho vào đáy của phễu frit này để tránh silica đi qua lớp lọc frit. Silica được đổ lên trên lớp cát như trong phương pháp huyền phù (xem bài: Cách nhồi cột). Sau đó, mẫu được đưa lên trên lớp silica này như theo phương pháp sắc ký cột.
Hình 5. Cách chuẩn bị để chạy phương pháp Silica plug.
Kích thước của phễu và lượng dung môi thu hồi cho từng phân đoạn sẽ phụ thuộc vào lượng mẫu được làm sạch. Các phân đoạn được thu hồi lớn hơn nhiều so với trong sắc ký cột. Dung tích điển hình của mỗi phân đoạn là 100 – 200 ml.
Nên đổ đến khoảng nửa bình đáy tròn. Nếu bình đày trên một nửa, mẫu có thể bị thất thoát do lực hút chân không hoặc bơm vòng nước.
Nếu sử dụng đường hút chân không, phải đảm bảo độ chân không không quá cao. Giữ cho van mở một phần để tránh điều đó. Độ chân không cao trong hệ thống có thể dẫn đến các va chạm trong bình, mất mẫu qua đường chân không. Độ chân không cao còn gây khó khan khi rút dây chân không ra, có thể làm silica bị khô rất nhanh nếu chân không không được tắt kịp thời. Do đó, bơm chân không vòng nước thích hợp hơn cho kỹ thuật này.
Dụng cụ sử dụng:
Phễu có lớp lọc frit
Một vài bình đáy tròn (4-6 bình, hoặc hơn)
Dung môi cần sử dụng
Bơm chân không hoặc dây nối với nguồn chân không
Cách làm:
Lưu ý: Khi đã lắp xong hệ này, thường dùng tay để giữ bình và phễu khi kẹp và tháo kẹp mỗi khi đổi bình, sẽ dễ hơn và vừa tiết kiệm thời gian và giảm được việc gây xáo động silica trong phễu.
Nếu lượng mẫu nhỏ (<50mg) và có rất ít tạp, nên chạy mẫu trên cột siêu nhỏ. Cột siêu nhỏ , đúng như tên gọi của nó là cột thu nhỏ dễ chạy hơn. Phương pháp này lý tưởng để phân tách mà cần đến sự thay đổi lượng dung môi khi dung môi được thêm vào từng lượng nhỏ để có thể tách hỗn hợp với giá trị Rf tương tự nhau.
Một cột siêu nhỏ có thể được tạo thành từ một pipet Pasteur thủy tinh, dùng một lần thông thường và cách sử dụng giống như với một cột sắc ký thông thường (hình 6). Hệ dung môi cho giá trị Rf thấp hơn thường sẽ được chọn, với cột siêu nhỏ Rf = 0.2 sẽ phù hợp hơn so với giá trị Rf = 0.3 ở cột thường.
Dụng cụ yêu cầu:
Một pipet thủy tinh dùng một lần
Vải sợi hoặc sợi thủy tinh
Silica
Cát (không bắt buộc)
Quả bóp pipet (cho sắc ký cột nhanh )
Phễu nhỏ /phễu lọc giấy
Phương pháp:
Lưu ý: Cần xử lý cẩn thận khi tháo quả bóp ra khỏi pipet. Sự thay đổi đột ngột về áp suất trong cột siêu nhỏ này có thể dẫn đến mặt trên của lớp silica bị xáo trộn, làm nứt vỡ cột, hỏng cả thí nghiệm.
Một ưu điểm khác khi chạy cột siêu nhỏ đó là một khi đã hoàn thành , có thể bỏ cột đó đi mà không cần phải làm sạch như các cột lớn.
Kết luận
Đây là bài cuối trong seri bài về sắc ký cột. Như vậy, bạn có thể tìm thấy thông tin và cách lựa chọn hệ dung môi cho mẫu của bạn, quyết định kích thước cột sử dụng, lượng silica bạn cần. Khi đã chọn lựa xong, bạn cần nhồi cột để tránh tạo bọt khí và nứt hỏng cột, có thể làm bạn phải thực hiện lại toàn bộ qui trình.
Sau đó, bạn cần tính toán thể tích hứng mỗi phân đoạn (tùy thuộc vào giá trị Rf và tốc độ dòng dung môi).
Cuối cùng, một điều rất quan trọng cần lưu ý: không được bỏ đi bất cứ thứ gì cho tới khi bạn chắc chắn rằng các phân đoạn của bạn đã đúng như bạn cần.
Quá đơn giản khi cho rằng mỗi vết chấm trong một phân đoạn chỉ là một tạp chất nhỏ có thể bỏ đi, trong khi thực tế bạn đã phải cố gắng nhiều ngày, nhiều tuần thậm chí là nhiều tháng để có thể thu được lượng tạp chất đó. Vậy nên, tốt nhất hãy kiểm tra kỹ càng và cân nhắc trước khi làm bất cứ một công đoạn nào trong quá trình thực nghiệm của bạn
Trong sắc ký cột |
|
Sắc ký cột |
Là phương pháp để tinh sạch các chất hóa học trong một hỗn hợp |
Sắc ký cột nhanh |
Sắc ký cột thực hiện trong điều kiện áp suất cao tạo bởi máy nén khí hoặc khí Ni tơ. Đây là kỹ thuật tiêu chuẩn được phân biệt với kỹ thuật sắc ký cột, hoạt động dựa trên tác dụng trọng lực. |
Pha tĩnh/ Chất hấp phụ/ silica |
Vật liệu rắn nhồi trong cột, thường là silica (SiO2), đôi khi có thể là alumina (Al2O3). |
Pha động/ Dung môi/ Chất rửa giải |
Chất lỏng rót vào cột sắc ký |
Giá trị mesh |
Giá trị này mô tả kích thước hạt pha tĩnh, giá trị mesh càng cao nghĩa là hạt càng nhỏ |
Alumina loại I, II, hoặc III |
Alumina có 3 loại phụ thuộc vào hàm lượng nước trong đó, loại I có ít nước nhất, loại III có nhiều nhất |
Dải (Band)/Điểm chấm (Spot)/chất Rửa giải (Eluate) |
Là phân đoạn trên cột có chưa hợp chất. Dải – band được dùng khi chạy cột thường, Điểm chấm – spot được dùng trong sắc ký bản mỏng TLC |
Dải bị mở rộng (Band widening) |
Quá trình khuếch tán trong cột có thể làm mẫu bị phân tán. Việc dải chứa mẫu bị mở rộng là không thể tránh khỏi tuy nhiên có thể giảm thiểu bằng cách giảm thời gian mẫu chạy trong cột. Cần nghiên cứu để tìm ra các điều kiện tối ưu để chạy cột |
Kéo vết/ bị bẩn/ bị nhòe |
Các từ này dùng để mô tả hiện tượng các dải chứa mẫu mở rộng quá nhiều trên cột hay trên bản mỏng, có thể làm cho tất cả các dải chứa chất hay các điểm chứa chất chạy cùng nhau, không phân biệt được |
Nhồi cột |
Quá trình chuẩn bị cột, gồm các bước: cho silica, dung môi vào cột và đảm bảo silica nhồi chặt trong cột, mà không tạo thành bọt khí hoặc các khoảng rỗng. |
Đưa mẫu |
Quá trình đưa mẫu vào cột. Đưa mẫu ướt là quá trình hòa tan mẫu trong một lượng dung môi tối thiểu rồi nhỏ lên mặt trên của silica. Đưa mẫu khô được mô tả trong bài trên. |
Chạy cột |
Là quá trình thu nhận và kiểm tra các phân đoạn khi chúng đi ra khỏi cột |
Rửa giải |
Nghĩa là rửa sạch, trong sắc ký có nghĩa là: đi ra khỏi cột |
Phân đoạn |
Là các phần dung môi được thu hồi ở phía đáy của cột, thường được đựng trong các ống nghiệm hoặc bình đựng với dung tích dao động từ 10 – 50ml |
Hệ dung môi |
Sự kết hợp của 2 hay nhiều dung môi được sử dụng làm pha động |
Trong Sắc ký lớp (bản) mỏng TLC |
|
Sắc ký lớp mỏng (bản mỏng) (TLC) |
Phương pháp sắc ký thực hiện trên tấm hoặc bản nhôm hoặc thủy tinh có phủ một lớp mỏng silica hoặc một pha tĩnh khác. Phương pháp này thường được dùng làm phương pháp kiểm tra nhanh bổ trợ cho sắc ký cột và sắc ký cột nhanh |
Ống mao quản chấm bản mỏng |
Dụng cụ dùng để đưa mẫu lên bản mỏng (Xem thêm bài: Cách sử dụng ống mao quản chấm bản mỏng) |
Giá trị Rf |
Là giá trị đo khả năng một chất di chuyển (trong một dung môi hay hệ dung môi cho trước ) |
Đỉnh dung môi |
Giá trị tối đa của dung môi, trên đỉnh của bản mỏng hoặc điểm cuối cùng thu dung môi trong cột sắc ký |
Vạch xuất phát |
Trong TLC, đây là vạch để chấm các chấm mẫu lên. Còn trong sắc ký cột chính là nơi bắt đầu nhỏ mẫu xuống. |
Phân giải/độ phân giải/ phân tách |
Đo khả năng của mỗi thành phần được tách ra khỏi hỗn hợp mãu. Độ phân giải hay phân tách tốt có nghĩa là mỗi cấu tử thành phần được thu hồi dễ dàng và sạch không chưa nhiều tạp chất trong các phân đoạn thu hồi |
|
Thường sử dụng trong phòng thí nghiệm, nhưng nên tránh khi sử dụng trong văn phong viết/hay báo cáo. |
Chạy cột (To column/Columning) |
Có thể hiểu trong giao tiếp phòng thí nghiệm, nhưng nguyên b |
Nguồn: Sarah Millar- Wiley-VCH Verlag GmbH & Co. KGaA, Weinheim /www.chemistryviews.org
Sắc ký cột là kỹ thuật phổ thông nhất trong các phòng thí nghiệm. Phương pháp này rất đơn giản và có thể phân lập...